Tác giả: Hoàng Thọ Kì, Trượng Thiện Văn - Dịch giả: Nguyễn Trung Thuần, Vương Mộng Bưu
Nhà xuất bản: Khoa học Xã hội
Giá bìa:122,000
Giá bán:122,000
Năm xuất bản: Quý II / 2
Ở vào thời hiện nay, chúng ta phải dựa trên cơ sở biện bác, phân tích mọi luận thuyết trước kia, phát hiện khai thác một cách khoa học giá trị chân chính của bộ trước tác triết học cổ điển này để đánh giá, xác định vị trí phải có của nó trong lịch sử triết học Trung Quốc và lịch sử văn hoá thế giới. Đương nhiên, trước hết cần phải lí giải một cách chính xác một loạt các vấn đề không thể tránh né khi nghiên cứu "dịch" học, như: quá trình sáng tác "chu dịch", bối cảnh thời đại, ý nghĩa của tên sách, ý lớn của kinh, truyện cho đến quá trình lịch sử của các hệ phái "dịch" học và, ngày nay nên áp dụng phương pháp nghiên cứu nào...
"Chu dịch" ở vị trí hàng đầu của "quần kinh", đây là bộ trước tác triết học cổ điển hết sức độc đáo ra đời sớm nhất và hiện còn truyền lại của Trung Quốc. Qua vẻ khác ngoài "bói toán" thần bí, bộ kì thư chói lọi hào quang tư tưởng đầy tính tượng trưng rất sâu sắc, rất huyền ảo chứa đựng trong đó một thứ triết lí thiên biến vạn hoá, hết sức uẩn súc, hết sức phong phú. Mọi người vừa tỏ ra ngưỡng mộ lại vừa thấy "xa lạ". Vì thế mà "người nhân thấy đạo gọi là nhân, người trí thấy đạo gọi là trí, trăm họ hàng ngày đều dùng đạo mà không biết". Cùng với tiến triển của lịch sử, kể từ khi Khổng Tử "đọc dịch khiến cho cái dây da buộc cái thẻ tre đứt ba lần", qua mỗi thời đại, nhận thức của các bậc học giả về "Chu Dịch" lại một sâu sắc thêm. Không thể kể hết được các trước thuật về "dịch" học đã xuất hiện, tuy nhiên, đồng thời cũng có rất nhiều những phán đoán rối rắm, các luận thuyết gán ghép khiên cưỡng nhiều đến nỗi làm người ta mắt hoa váng đầu, khiến cho tư tưởng của "Chu dịch" vốn thuộc về "huyền học" đã bị nhuốm hết lớp này đến lớp khác cái "sắc thái phụ gia" của sự "huyễn tưởng và kì tưởng". Thượng Bỉnh Hoà tiên sinh xúc động trước tình hình này, đã cảm khái mà than rằng : "chú giải dịch" nhiều quá, chú giải "dịch" khó quá, nếu chẳng phải là người có kiến giải chính xác và thấu triệt, nêu vấn đề lên để cùng nhau trao đổi chỗ đúng, chỗ sai, cùng nhau khảo đính điều được, điều mất thì những kẻ hậu học biết dựa vào đâu mà theo vậy?". Ở vào thời hiện nay, chúng ta phải dựa trên cơ sở biện bác, phân tích mọi luận thuyết trước kia, phát hiện khai thác một cách khoa học giá trị chân chính của bộ trước tác triết học cổ điển này để đánh giá, xác định vị trí phải có của nó trong lịch sử triết học Trung Quốc và lịch sử văn hoá thế giới. Đương nhiên, trước hết cần phải lí giải một cách chính xác một loạt các vấn đề không thể tránh né khi nghiên cứu "dịch" học, như: quá trình sáng tác "chu dịch", bối cảnh thời đại, ý nghĩa của tên sách, ý lớn của kinh, truyện cho đến quá trình lịch sử của các hệ phái "dịch" học và, ngày nay nên áp dụng phương pháp nghiên cứu nào... các vấn đề này tuy đã được bàn tới rất nhiều nhưng phần lớn đều đưa đi đến nhất trí. Mở "chu dịch" ra, cái đầu tiên ta thấy chính là phù hiệu của bát quái, phù hiệu của 64 quẻ cùng các lời quẻ, lời hào có liên quan chặt chẽ với những phù hiệu này. Đó chính là phần "Kinh" của "Chu Dịch". Quá trình sáng tác phần "Kinh" của "Chu dịch" đại thể trải qua ba giai đoạn: khái niệm âm dương ra đời, bát quái được đặt ra, quẻ đồng thời soạn ra các lời quẻ lời hào. Rất rõ ràng là bất kể là bát quái hay 64 quẻ đựơc đặt ra sau này, thì trước đó chúng cũng đều do hai âm dương ghép lại mà thành. Cho nên, nói đến việc sáng tác "Chu dịch", chúng ta không thể không bắt đầu tư hai loại phù hiệu cơ bản đó mà bàn. Sự hình thành của khái niệm "âm", "dương" là do những con người thời cổ thông qua "sự quan sát trực tiếp các hiện tượng mâu thuẫn của muôn vật trong vụ trụ và nên". "Trong khoảng trời đất mênh mông, không ngoài cái lí của một âm, một dương", trong con mắt của người xưa, trời đất nam nữ, ngày đêm, nóng lạnh, trên dưới, thắng thua..., hầu như tất cả mọi hiện tượng trong đời sống đều có những mâu thẫun phổ biến và đối lập nhau. Căn cứ vào sự quan sát trực cảm, thô sơ của mình, người xưa đã chia tách các sự vật với những sự thiên biến vạn hoá chằng chịt, phức tạp của chúng trong vũ trụ ra làm hai loại lớn am dương, đồng thời biểu thị chúng bằng hai loại phù hiệu: vật âm là "_ _", vật dương là "_". Tại sao lại dùng hai loại phù hiệu này để tượng trưng cho âm và dương?...
MỤC LỤC Lời nói đầu Những điều quan trọng khi đọc "Dịch" Mấy lời về việc dịch chú Quyển 1 Thượng kinh Quẻ Càn thứ nhất Quẻ Khôn thứ hai Quỷa Truân thứ ba Quẻ Mông thứ tư Quyển 2 Quẻ Nhu thứ năm Quẻ Tụng thứ sáu Quẻ Sư thứ bảy Quẻ Tị thứ tám Quẻ Tiểu Súc thứ chín Quẻ Lí thứ 10 Quẻ Thái thứ 11 Quẻ Bĩ thứ 12 Quyển 3 Quẻ Đồng Nhân thứ 13 Quẻ Đại Hữu thứ 14 Quẻ Khiêm thứ 15 Quẻ Dự thứ 16 Quẻ Tùy thứ 17 Quẻ Cổ thứ 18 Quẻ Lâm thứ 19 Quẻ Quán thứ 20 Quẻ Phệ Hạp thứ 21 Quẻ Bí thứ 22 Quyển 4 Quẻ Bác thứ 23 Quẻ Phục thứ 24 Quẻ Vô Sự thứ 25 Quẻ Đại Súc thứ 26 Quẻ Di thứ 27 Quẻ Đại Quá thứ 28 Quẻ Khảm thứ 29 Quẻ Lú thứ 30 Quyển 5 Hạ Kinh Quẻ Hàm thứ 31 Quả Hằng thứ 32 Quẻ Độn thứ 33 Quẻ Đại Tráng thứ 34 Quẻ Tấn thứ 35 Quẻ Minh Di thứ 36 Quẻ Gia Nhân thứ 37 Quẻ Khuê thứ 38 Quyển 6 Quẻ Kiển thứ 39 Quẻ Giải thứ 40 Quẻ Tốn thứ 41 Quẻ Ích thứ 42 Quẻ Quái thứ 43 Quẻ Cấn thứ 44 Quẻ Tụy thứ 45 Quẻ Thăng thứ 46 Quyển 7 Quẻ Khốn thứ 47 Quẻ Tính thứ 48 Quẻ Cách thứ 49 Quẻ Đỉnh thứ 50 Quể Chấn thứ 51 Quẻ Cấn thứ 52 Quẻ Tiệm thứ 53 Quẻ Qui Muội thứ 54 Quyển 8 Quẻ Phong thứ 55 Quẻ Lữ thứ 56 Quẻ Tốn thứ 57 Quẻ Đoài thứ 58 Quể Hoán thứ 59 Quẻ Tiết thứ 60 Quẻ Trung Phi thứ 61 Quẻ Tiểu Quá thứ 62 Quể Kí Tế thứ 63 Quể Vị Tế thứ 64 Quyển 9 Hệ từ thượng truyện Hệ từ hạ truyện Quyển 10 Thuyết quái truyện Tự quái truyện Tạp quái truyện Phụ lục - Thư mục trích dẫn chủ yếu
|